Mi Lan Trì
Tác giả Lam Liên Hoa
Dịch Bướm Mùa Đông
Chỉnh Khuyên
Chương 4: Trùng phùng • Phương Nhạn Dao
Tiếng pháo lách tách vọng lại khiến tôi tỉnh giấc.
Đêm Ba Mươi tháng Chạp, giao thừa.
Vết thương ở ngực nhói lên.
Nhưng đau nhất là trái tim.
Lúc tôi thấy lại gương mặt ấy, tôi mới biết hóa ra mình còn có trái tim. Trái tim sau mười tám năm bỗng nhiên đập rộn ràng như muốn vỡ ra, vì tôi cho rằng rốt cuộc tôi đã gặp lại Linh của tôi.
Nhưng đó không phải là Linh.
Ánh lửa soi rọi gương mặt non tơ, tuyệt đối không thuộc về người con gái tôi muốn ở bên suốt đời, cũng dùng cả đời để quên đi.
Là con gái của Linh, Mộ Dung Mi.
Tôi không muốn nhớ họ của cô, chỉ gọi tên cô thôi.
Mi.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Mi là mười tám năm trước. Khi đó, cô chỉ là một đứa trẻ sơ sinh.
Tôi còn nhớ đêm đó trời mưa rất to, tựa hồ như cả bầu trời hỗn độn đều hóa thành nước, chảy mãi không dừng, thế gian trở thành một mảnh lầy lội ẩm ướt.
Chính vào ngày ấy tôi đã đến một thôn trang ở miền bắc cách quê hương rất xa.
Ngôi nhà thứ ba trong thôn làng. Bờ rào oằn mình trong mưa gió, ngôi nhà nhỏ khẽ vặn mình.
Có người nói cho tôi biết Linh đang ở đây.
Mưa to như vậy, tôi không biết em có nghe thấy tiếng động bên ngoài không. Cho dù có nghe, tôi cũng không muốn thấy em băng mình qua khoảng sân lầy lội để mở cửa cho tôi.
Tôi vượt qua hàng rào, bước đến mái hiên, lúc đó tôi nhìn thấy phía trong song cửa sổ ánh lên màu vàng nhạt, có lẽ người ta thắp đèn.
Tôi nhớ đến những quán trọ đã đi qua từ sau năm mười tám tuổi rời khỏi gia đình, luôn là một mảng cửa sổ tối om. Cho dù sau khi bước vào phòng, người phục vụ thắp lên ngọn đèn trên bàn, ánh đèn tờ mờ rọi lên những bố trí rập khuôn trong phòng, chỉ khiến cho lòng càng thêm hoang mang, vô định.
Vào lúc này, từ ngôi nhà dưới mái hiên lụp xụp rọi lên một chút ánh sáng huyền ảo, khiến tôi quên đi mưa gió mù mịt phía sau lưng, cảm thấy ấm áp và an toàn, nhiều cảm xúc ưu hoài dấy lên trong khoảnh khắc, chỉ trong một ý niệm, bao nhiêu năm lưu lạc thật vô nghĩa, tương lai mịt mờ.
Chậm rãi buông dù che mưa xuống, bước đến gần cửa, nghe loáng thoáng tiếng bước chân.
Đã chuẩn bị xong câu nói với em ngay khi em mở cửa. Là câu lẽ ra tôi phải nói với em vào mười năm trước.
Trải qua nhiều năm đằng đẵng, cuối cùng cũng đã quyết định sẽ vì em mà mặc kệ hết thảy.
Cửa phòng bật mở, một gương mặt xa lạ.
Chúng tôi ngạc nhiên nhìn nhau, sau đó tôi nghe một giọng nói rất đỗi quen thuộc từ trong phòng vọng ra:
“Điền tẩu, là ai vậy?”
Tôi nhất thời nói không nên lời, chỉ đưa mắt nhìn về trong.
Ngôi nhà đơn sơ, chỉ có màn treo trong phòng là vật cũ, ánh trăng sáng soi lên một dãy nhạn bay, tất cả mọi thứ em thêu cho tôi đều có hình ảnh đó.
Điền tẩu như chợt nhớ ra, vui mừng:
“Phương cô nương, lại đây xem này, có phải là tướng công của cô không?”
Trái tim khẽ run, cảm thấy có điều không ổn, muốn thanh minh, nhưng lại không biết nói gì.
Trong phòng trầm mặc, bỗng nhiên rèm cửa vén lên.
Trong khoảnh khắc nhìn thấy cánh nhạn trên rèm, chuyện xưa ùa về, như ngàn đóa hoa bung nở.
Tôi nhìn thấy Linh đã xa cách mười năm. Em đứng bên bậc cửa, gương mặt tái nhợt, ánh mắt khắc khoải kinh ngạc.
Lúc này tôi mới nhìn thấy em búi tóc lên cao, trong tay còn ôm một đứa bé sơ sinh.
…..
Điền tẩu coi như đã xác định thân phận của tôi, cũng nhìn ra tôi ngại ngùng, mỉm cười giải vây:
“Nương tử nhà cậu sinh cho cậu một thiên kim, vừa mới tròn tháng, đến nhìn xem nhé?”
Linh giật mình, tựa như vừa tỉnh mộng, giọng điềm nhiên:
“Điền tẩu, huynh ấy không phải tướng công tôi, mà là đại ca của tôi, Phương Nhạn Dao.”
Tôi nghe thấy họ nói chuyện với nhau, mỗi một chữ đều nghe rõ mồn một.
Tôi đột nhiên cảm thấy mặt đất như sụp đổ, cát bụi đầy trời. Tôi cũng không biết làm thế nào mình vẫn còn có thể đứng đó, để nhìn cô gái mình yêu bồng con của người khác.
Sau khi Điền tẩu rời khỏi, Linh dỗ con ngủ, sau đó lặng lẽ dọn cơm.
Tôi và em ngồi đối diện nhau, thức ăn trên miệng mà nghe nghẹn ngào.
“Ta không biết em đã lấy chồng.” Cuối cùng tôi cũng lên tiếng. Nói dứt câu nghe tim mình vỡ tan thành từng mảnh.
Em cũng không ngẩng đầu, chỉ nhàn nhạt nói: “Tôi không có lấy ai, chỉ là có con với người khác.”
Em nói như vậy càng khiến tôi đau đớn hơn so với chuyện em đã lấy chồng.
“Vì sao?” Tôi hỏi.
Em ngẩng đầu lên nhìn tôi, giọng giá lạnh. “Anh quan tâm ư?”
“Đương nhiên.” Tôi nói. “Dù sao ta cũng là đại ca của em.”
Em nhìn tôi chăm chăm, sau đó dời mắt, chỉ nói:
“Có lẽ vì tôi muốn thấy anh đau lòng.”
Tôi nhìn em nghiến răng nói hết câu, căng phồng đôi má, ánh mắt quật cường, hệt như trước. Trong một thoáng ấy, tôi cảm thấy thương tâm vô cùng.
Rất lâu sau tôi mới mở miệng: “Chúng ta rời khỏi đây đi! Ta sẽ cưới em và chăm sóc cho con em.”
Khi nghe tôi nói câu đó, em bật cười.
“Anh nói gì vậy? Lẽ nào anh đã quên anh là anh trai của tôi à?”
Em cứ cười, cười không dứt. Đứa bé trong phòng bị tiếng cười đánh thức, khóc ngặt nghẽo, nhưng em cũng không quan tâm.
Tôi thở dài, bước đến ẵm đứa bé lên. Đứa bé lập tức nín khóc, tròn đôi mắt trong veo nhìn tôi. Tôi ôm nó ra ngoài. Nhìn thấy em khóc rống, đứa bé trong tay tôi bất an cứ ngọ nguậy. Chúng tôi đang chờ câu trả lời của em.
Em khóc rất lâu, rồi dần dần bình tĩnh lại.
Sau đó, em đứng dậy đi lấy nước, rửa mặt, chải lại tóc, rồi đón lấy đứa bé trong tay tôi.
“Anh nên nói với tôi như vậy vào mười năm trước.”
Tôi nghe ngữ khí bình thản của em, biết đã không còn hi vọng.
“Tôi hai mươi bảy tuổi rồi.” Em nói. “Tôi đã dùng thời gian chín năm để từ bỏ anh.”
Em cúi đầu ngắm đứa bé trong ngực, tôi không nhìn rõ nét mặt của em. “Tên nó là Mộ Dung Mi. Tôi và cha nó gặp nhau vào một năm trước, chàng tên là Mộ Dung An.”
Giang Nam Nhất Kiếm Mộ Dung An, chưởng môn tương lai của Mộ Dung thế gia. Biết được là anh ta, có lẽ tôi cũng an lòng phần nào.
Trầm ngâm thật lâu, tôi hỏi: “Khi nào anh ta đến đón em?”
“Tôi sẽ chờ chàng.” Em dứt khoát.
Sự kiên định trong giọng nói của em khiến tôi hoảng hốt, phảng phất đã gặp đâu đó trong hồi ức xa xưa. Đến khi nhớ ra, lòng chợt đau như dao cắt.
Mười năm trước, câu hỏi em hỏi tôi, vào đêm trước khi tôi bỏ đi, một hồi lâu sau tôi vẫn không trả lời. Lúc đó, em đột nhiên thổi tắt đèn dầu, trong bóng tối ôm chặt tôi:
“Anh phải nhớ, em luôn đợi anh, đợi đến khi không đợi được nữa.”
Giọng nói năm đó giống hệt như hôm nay.
Tôi đã để em đợi mười năm.
Tôi cuối cùng đã trở lại, nhưng người em đợi đã không phải là tôi.
Có lẽ, vào thời khắc một năm trước, khi tôi trở về cố hương, phát hiện em đã bỏ đi không biết tung tích, bắt đầu tìm kiếm em, có lẽ vào lúc đó, em đã gặp Mộ Dung An.
Có lẽ, sâu thẳm trong số mệnh an bài, chúng tôi lỡ một bước, từ đó vô duyên.
Tôi rời khỏi thôn trang ngay trong đêm đó. Một đường ngược lên phía bắc, tìm vào núi sâu. Có lẽ tôi chỉ muốn tránh xa Giang Nam, tránh xa quê hương của người mà em đang đợi.
Tôi biết rất rõ từ nay tôi đã mất Linh vĩnh viễn. Nó khiến tôi hiểu được cái gọi là nỗi nhớ tan thành khói mây.
Lần đầu gặp em khi tám tuổi, em là cô nhi mẹ mang về nuôi dưỡng. Từ đó em là em gái tôi, tôi biết tôi muốn chăm sóc em, yêu thương em, trở thành chỗ dựa vững chắc cho em.
Một buổi chiều hoàng hôn năm mười sáu tuổi, tôi ngồi thổi tiêu dưới gốc cây tử đằng, chợt thấy dải áo phiêu phất trong ráng chiều xa xôi, trong lòng hoảng hốt kỳ lạ, chợt dừng tiếng tiêu.
Một thoáng đó, tôi giật mình phát hiện tôi đối với em đã không còn là tình anh em đơn thuần, mà ánh mắt em nhìn tôi cũng khiến tôi hiểu, lòng em cũng như tôi.
Cho dù không ai nói ra.
Mười tám tuổi, cha mẹ tạ thế. Sau khi xử lý xong hậu sự, tôi rời khỏi cố hương.
Tôi không thể đơn độc đối diện với em dưới mái nhà này, tôi không thể để gia tộc bao đời phải mang tiếng xấu, tôi không thể ở thị trấn cổ xưa này làm nên chuyện kinh thiên động địa, tôi không dám bỏ mặc tất cả để dẫn em đến một nơi không có ai biết chúng tôi. Tôi chỉ biết trốn chạy.
Trong suốt mười năm xa nhà, em là người con gái tôi không dám nhớ nhưng vẫn hoài nhớ mỗi ngày.
Đằng đẵng mười năm, đủ để chiêu kiếm Nhẫm Nhiễm Tại Y của tôi vang danh trên giang hồ. Không ai biết rằng luồng gió phảng phất ôn hòa quyến luyến khi tôi xuất kiếm, kỳ thật chính là phương tiện tôi gửi gắm nỗi nhớ cho ngưởi con gái tôi không thể yêu.
Nhưng mà từ nay về sau, tôi phải làm sao đây?
Tôi phải sống tiếp cuộc sống không thể thương nhớ em như thế nào đây?
Năm ấy, tuyết trên núi rơi sớm, tôi dựng một căn nhà, săn thịt làm thức ăn, lấy tuyết làm nước uống. Tôi đã ở đó suốt một mùa đông.
Tôi không tính ngày tháng. Tôi thích cảm giác tách biệt với thế gian này, có khi cả đêm không ngủ, nghe tiếng sói hú dài dưới bóng trăng, vang vọng núi non.
Nhiều lúc tôi cảm thấy, con sói kia cũng cô đơn không khác gì tôi.
Trong một trận tuyết lở, tôi cứu được một cậu thợ săn sắp bị đông thành băng. Cậu ta đến vào những ngày đông, trước khi cơn bão tuyết ập đến, đặt bẫy săn hồ ly đen. Lúc tôi tìm thấy cậu ta, cậu ta đã săn được bốn bộ lông nguyên vẹn.
Cậu ta nói nếu có đủ tám tấm da hồ ly tốt như thế, cậu ta có thể đổi đủ tiền để rời khỏi vùng gió tuyết này. Ông nội và cha của cậu ta đều táng thân trong những cơn bão tuyết điên cuồng bất chợt, cậu ta chán ghét nơi này, cậu ta muốn đến vùng đất Giang Nam vĩnh viễn không có gió tuyết.
Tôi giúp cậu ta săn tiếp bốn bộ lông còn lại, nhưng con đường xuống núi đã bị tuyết bít kín, cậu ta chỉ còn cách chờ đến mùa xuân tuyết tan.
Vài chiêu đi săn thô vụng của cậu ta, tiềm tàng tư chất học võ. Trong núi rảnh rỗi, tôi chỉ điểm vài điều, cậu ta tiến bộ cực nhanh.
Lúc ra đi, cậu ta nói cho tôi biết tên cậu ta là Quan Địch (1).
Cậu ta nói mình sinh vào mùa thu, là lúc cỏ lau trổ đầy bông quanh hồ ở bên kia núi.
Mùa xuân đến, tuyết tan thành suối, tôi dời nhà lên sườn núi cao hơn, dòng nước trong uốn lượn bên vách nhà.
Mùa hạ trên núi cũng không nóng, chỉ có cỏ cây um tùm, và nhiều mưa.
Mùa thu đến, tôi vượt núi tìm thấy cái hồ Quan Địch từng nhắc đến. Cỏ lau bên hồ trổ từng cụm như mây, khiến tôi nghĩ về chuyện cũ, thêm nao lòng.
Tôi thổi tiêu luyện kiếm bên hồ, bông cỏ lau nhảy múa trong bóng kiếm. Tôi nhìn thấy phía chân trời xanh ngắt, mây trắng bồng bềnh, phảng phất mình đã không còn nhiễm ô trọc nhân thế.
Trên núi bốn mùa luân chuyển, tôi quên cả năm tháng đang trôi.
Không biết đã trải qua mấy năm, lại đến mùa đông.
Mùa đông năm ấy, tôi không còn nghe được tiếng hú dài quen thuộc.
Tôi tìm con sói ấy suốt cả mùa đông, nhưng không thấy tung tích. Có lúc hoảng hốt, cảm thấy những tiếng hú kia thật ra chưa từng tồn tại, đó chỉ là tiếng linh hồn tôi gào thét trong đêm sâu. Tịch mịch bồi hồi dưới trăng, vì bản thân giãy giụa khỏi chuỗi bi ám cuối cùng.
Khi cỏ cây xanh tốt trở lại, tôi xuống núi.
Tôi không biết tại sao lại có thể đến được thôn Linh từng ở, trong khi rõ ràng bản thân đã quên mất đường đi. Có lẽ là do định mệnh đang dẫn đường.
Tôi đoán rằng Linh không còn ở đây nữa, nhưng tôi vẫn đến căn nhà ở ngõ thứ ba thôn đông.
Vẫn hàng rào xưa, tựa như chưa từng dời lấp.
Củi thưa thớt, căn nhà thấp bé vắng vẻ.
Tôi hoảng hốt nhớ đến rất nhiều năm trước, tôi cũng từng đứng dưới hiên nhà này, hạ quyết tâm tiến vào trong để gặp cô gái xa cách nhiều năm, để cho em một câu ước hẹn, nhưng mà, tôi chỉ nhìn thấy em ôm đứa con của người khác vào lòng.
Cánh cửa nhẹ nhàng đẩy ra đánh vỡ dòng suy nghĩ của tôi, một thân ảnh nhỏ bé theo khe cửa lách ra sân.
Đó là một đứa bé khoảng năm, sáu tuổi, quần áo cũ nát, bím tóc tết bừa, cầm trong tay một bầu nước tiến về phía chum nước ở cuối sân, chum nước còn cao hơn nó.
Nó trèo lên tảng đá đặt cạnh chum nước, kiễng chân vươn người về phía trước, cố gắng múc số nước ít ỏi còn trong chum. Tư thế của nó vô cùng nguy hiểm, tựa như có thể ngã vào chum nước bất cứ lúc nào.
Tôi thở dài rồi bước về phía sân. Nó ngừng tay, quay đầu lại nhìn tôi.
Đến khi nhìn rõ khuôn mặt bé nhỏ đó, tôi đã biết nó là ai. Thời gian vụt trở về rất nhiều năm trước, khi mẹ dẫn Linh về nhà, đôi mắt to đen láy, quật cường.
Trước mắt một mảnh mơ hồ, nhất thời nói không nên lời.
Đứa trẻ nhảy xuống khỏi tảng đá, chạy đến hàng rào cửa.
Nó nhìn tôi, ánh mắt cảnh giác. “Thúc thúc,” giọng trong trẻo, “Chú tìm ai?”
“Con là Mi?” Tôi thì thầm.
Trong mắt nó ánh lên một tia nghi hoặc, khẽ gật đầu.
“….Mẹ con đâu?”
Nó quay đầu nhìn trong phòng, như sợ cuộc nói chuyện của chúng tôi sẽ đánh thức mẹ nó. “Mẹ bệnh rồi, đang ngủ.”
“Mi!” Trong nội tâm dâng lên một cơn chua xót, chậm rãi nói. “Ta biết mẹ con.”
Nó nhất thời không nói gì, ngước nhìn tôi. Sau đó trên mặt dần lấp lánh sự tín nhiệm.
Nó đi tới, kéo cánh cổng rào khép hờ ra.
“Thúc thúc, chú giúp con múc nước được không? Con phải nấu thuốc cho mẹ.”
Lúc gặp lại, Linh đã hoàn toàn thay đổi. Em sinh bệnh quá lâu, tất cả những đại phu tôi mời đến đều lắc đầu. Tôi biết rằng ngày tháng của em không còn nhiều nữa.
Từ lúc tôi mới đến, em tựa hồ chưa nhìn tôi lần nào. Có nhiều lúc, em chỉ tựa người vào tường thất thần, ánh mắt em lúc ấy dịu dàng như mây nước. Tôi chỉ nhìn thấy ánh mắt em như vậy vào rất nhiều năm trước, còn bây giờ, dịu dàng đã không còn vì tôi.
Tôi nhìn thấy sắc mặt của em ngày càng nhợt nhạt, có khi tôi cảm thấy được sinh mệnh của bản thân cũng theo đó nhạt nhòa.
Mi chưa từng khóc náo trước mặt tôi lần nào, chỉ trừ một lần, tôi nhìn thấy nó ngồi xổm trên đống củi sau nhà khóc không ra tiếng. Tôi ôm lấy nó, nó lặng lẽ ôm cổ tôi. Nước mắt thấm ướt cổ áo tôi, lúc đầu ấm áp, sau đó dần lạnh lẽo.
Một lần tôi đưa Mi đi chơi. Lúc đó trời đang vào thu, ngoại ô nở đầy hoa đậu biếc. Không biết vì sao hoa đậu biếc nơi đây không có màu tím đậm hay hồng đậm, chỉ có hồng nhạt, tím nhạt và màu trắng, phảng phất như bị ánh mặt trời xuyên qua trở nên trong suốt.
Mi thả lòng khóc một trận thật lớn, lúc đó nó mới giống một đứa bé con năm tuổi.
Lúc tôi dẫn Mi về, Linh đã tỉnh lại. Hôm đó, em và Mi nói chuyện suốt đêm, nhưng tôi nghe không rõ.
Sáng sớm mấy ngày sau, em sai Mi đi đâu đó.
Em muốn tôi hứa với em, sau khi em mất, đưa Mi về với cha nó.
Tôi lặng lẽ gật đầu.
“Chàng chưa chắc đã đối tốt với nó, tôi muốn anh thỉnh thoảng đến thăm nó, cho đến lúc nó trưởng thành.”
Tôi cũng đồng ý.
Em thở dài một hơi, quay đi hướng khác. Ánh mắt minh mẫn trở nên ảm đạm.
Em thủy chung vẫn yêu hắn, dù hắn phụ em bao nhiêu năm, dù hắn không hề đến đón em.
Đêm hôm đó, tôi ngồi thổi tiêu dưới gốc tử đằng trong sân.
Tôi chưa từng thổi khúc nhạc này, tự nhiên lại vô thức thổi nó lên, có lẽ bởi vì đời người cũng thê lương như khúc nhạc kia.
Cửa trong phòng mở ra, tôi nhìn thấy Linh bên cánh cửa.
Em đã nhiều ngày không thể xuống giường. Nhìn thấy em, tôi hơi kinh ngạc, ngừng tiếng tiêu.
“Đừng ngừng lại!” Em thấp giọng nói.
Tôi lại tiếp tục thổi, em từ từ bước đến ngồi xuống bên cạnh tôi.
Giàn hoa tắm ánh trăng nhạt, khắp mặt đất phủ màu trắng. Bất chợt vài cánh hoa tử đằng rụng xuống, điểm xuyến cánh hoa băng.
Em đeo thứ gì đó bên hông tôi, tôi biết đó là một túi thơm mới.
Túi thơm lần trước em tặng tôi, trong một lần chiến đấu đã bị người khác làm hỏng. Tôi không nỡ bỏ đi, vẫn giữ trong người.
Em đưa tay ôm lấy hông tôi, nhẹ nhàng tựa đầu vào vai tôi.
Em kề tai tôi thấp giọng. “Đừng ngừng lại!” Em nói. “Chết đi trong tiếng tiêu của anh, em mới không cảm thấy sợ hãi.”
Tôi khẽ run lên, nhưng vẫn không dừng lại.
Tôi không hề dừng lại, dù cảm giác được tay của em ôm tôi đang lơi dần.
Tôi không hề dừng lại, dù không còn cảm nhận được hô hấp của em.
Tôi không hề dừng lại, cho đến khi trời sáng tỏ, khói bếp của các nhà xung quanh bốc lên, gà gáy chó sủa, mặt trời đã lên cao.
Tôi không hề dừng lại.
Những thứ đó không can hệ gì đến tôi.
Tôi chỉ cảm thấy tôi muốn thổi như thế này mãi.
Cứ thổi mãi.
Cứ thổi mãi.
Cứ thổi mãi.
….
Nhưng vẫn còn Mi.
Tôi đã từng hứa sẽ đưa nó đến bên cạnh cha nó.
Khi Mi ôm lấy thân thể đã lạnh ngắt của mẹ nó, mặt đầy nước mắt ngước lên nhìn tôi, tôi biết mình phải thực hiện lời hứa của mình với em.
Tôi đưa Mi vượt ngàn dặm đến Giang Nam.
Tôi gặp người đàn ông Linh một mực chờ đợi, Mộ Dung An. Ông ta hoàn mỹ không ngoài dự liệu của tôi.
Lúc đầu, ông ta kinh ngạc, nghi hoặc nhìn Mi, sau đó thần sắc dần bình thường trở lại. “Nàng không hề nói với ta nàng có mang.”
“Cho nên ngươi mới mặc kệ nàng lưu lạc bên ngoài?”
Ông ta cười: “Ban đầu ta đã có ý cưới nàng về, là tự nàng không chịu.”
Ông ta nhìn tôi, vẻ mặt mang nét trào phúng: “Nàng vẫn luôn chờ đợi một người, không chịu từ bỏ. Người đó, ta nghĩ là ngươi.”
Khoảnh khắc như long trời lở đất, không thể tin được, vô cùng hoang đường.
“Ngươi không biết hay sao?” Mộ Dung An nhìn tôi. “Nói như vậy, ngươi còn không hiểu nàng bằng ta.”
Trong đêm đó, tôi rời Mộ Dung phủ.
Tôi đến thăm mộ Linh. Tôi cho rằng em sẽ đến báo mộng cho tôi, nói cho tôi biết sự thật đến tột cùng là thế nào.
Nhưng em như tan ra thành sương khói, chưa bao giờ chịu vào mộng để gặp tôi.
Một chiều hoàng hôn, mặt trời rơi sau núi, tờ mờ trăng lên.
Tôi nhổ cỏ hoang trên mộ em, ngồi xuống thổi tiêu cho em nghe. Sau đó tôi rời đi, tiếp tục phiêu bạt giang hồ. Tôi không biết nhân gian mịt mù rốt cuộc đâu là bờ bến. Trời cao đất dày, biết nơi nào là chốn dung thân. Tôi chỉ muốn tìm việc để làm, thắng bại sinh tử không liên quan gì đến tôi.
Tôi bắt đầu truy lùng tên tặc phỉ nhiều năm chưa quy án, thậm chí tôi từng hi vọng sẽ bại dưới tay tên đạo tặc hung tàn này, vô thanh vô thức chết đi ở một thị trấn nhỏ nơi biên giới, hoặc là vùng rừng rậm hoang vu nào đó. Thật kỳ lạ là kiếm pháp của tôi lại vì đó càng ngày tiến bộ.
Chính vào những năm tháng đó, tôi lại nghe đến tên của Quan Địch. Bổ khoái trẻ tuổi nổi danh khắp bảy tỉnh miền nam, kĩ xảo truy tìm tung tích siêu phàm, ý chí kiên nhẫn, võ công độc môn kỳ dị, uy hiếp hắc đạo quần hùng. Giang hồ đồn rằng vũ khí của hắn là xích sắt, điều đó gợi tôi nhớ đến sợi dây thừng linh hoạt của thiếu niên trẻ tuổi cùng tôi săn hồ ly năm nào.
Có vài lần chúng tôi vô tình gặp nhau, cùng truy đuổi đạo tặc ở một nơi. Tôi rời đi sau khi âm thầm giúp đỡ.
Tôi nhìn thấy cậu thiếu niên ngày xưa đã trở thành một thanh niên anh tuấn, võ công hắn tự tìm tòi tuy rằng chưa đủ, nhưng vì ra tay bất ngờ khó đoán thành ra lợi hại.
Những khi kết thúc một cuộc truy tìm, tôi thường đi thăm Mi. Nhưng mỗi lần đều không để nó biết. Vào dịp sinh nhật Mi, tôi hay âm thầm để lễ vật lại ở khu vườn hoang. Khi tôi trông thấy mặt Mi vì bất ngờ mà lấp lánh niềm vui, mới cảm thấy, cuộc sống như vậy, ít ra vẫn còn một chút ý nghĩa.
Mi ngày càng trưởng thành, so với lúc nhỏ hoạt bát vui vẻ hơn. Tôi chứng kiến Mi lớn lên, phảng phất như gặp lại Linh thời thiếu nữ. Điều đó khiến tôi cảm niệm sâu sắc, đồng thời cũng đau đớn vô hạn.
Năm Mi bảy tuổi, tôi đến thăm Mi vào một đêm rất khuya.
Đêm đó hồng nhạn kêu loạn, chim bay đầy trời.
Tôi nhìn thấy ánh sao chiếu lên gương mặt đang say ngủ của Mi, không biết Mi mơ thấy gì, trên khóe mắt còn vương giọt lệ. Tôi mới nhận ra, vẻ hoạt bát vui vẻ của Mi chỉ thuộc về ban ngày.
Tâm tình lạnh lẽo như nước. Tôi không hiểu tại sao Linh không chịu để tôi nuôi dưỡng Mi, tôi thậm chí còn chăm sóc Mi tốt hơn cả cha ruột của nó.
Đêm đó khi tôi rời đi, phát hiện có bóng người từ vườn hoang vụt ra, bay lên tường rào, mờ ảo như khói. Cơ thể run lên, lập tức đuổi theo. Nửa canh giờ sau, hắn chạy vào một ngõ nhỏ.
Tôi cẩn trọng tiến vào, sau vài bước chân, tôi nghe thấy tiếng kim loại xé gió lao thẳng đến mặt. Tia sáng lóe lên, tôi nghĩ tôi đã biết đó là ai. Trong suýt soát ấy, tôi hỏi: “Quan Địch?”
Xích sắt rơi xuống dưới chân tôi, có người tiến tới gần, cố gắng nhìn kĩ tôi dưới ánh sao tờ mờ, sau đó hắn cười, răng sáng như ánh bạc lóe lên rồi tắt: “Anh chưa từng cho tôi biết tên anh.”
“Tôi họ Phương.” Tôi nói. “Phương Nhạn Dao!”
Ánh mắt cậu ta chợt sáng lên, “Thì ra anh là Phương Nhạn Dao. Nói vậy, người luôn hỗ trợ cho tôi chính là anh.”
“Những lần đó đều là trùng hợp.” Tôi nói.
“Vậy sao?” Cậu ta nghiêng đầu nhìn tôi, nụ cười rạng rỡ, thấp thoáng như thấy lại hình bóng cậu thiếu niên ngây thơ.
Tôi và cậu ta nhìn nhau cười. Cố nhân gặp gỡ, vui không nói thành lời.
Đêm đó, ở nhà cậu ta, chúng tôi cùng kề vai tựa gối uống rượu. Cậu ta kể tận tường những chuyện sau khi chia tay, tôi im lặng lắng nghe.
Sau đó, cậu ta hỏi tôi duyên cớ vào Mộ Dung phủ, tôi nói vắn tắt chuyện của A Mi cho cậu ta. Nhưng khi tôi hỏi lý do cậu ta ở đó, cậu ta lại do dự.
Tôi biết cậu ta có điều khó nói, nên cũng không truy vấn. Cậu ta lại cười to lên như một đứa trẻ, thật thà:
“Em đến đó, là để gặp cô nương nhà Mộ Dung.” Cạn một ly, cậu ta lại nói: “Đại ca, bất luận thế nào, em cũng muốn cưới nàng làm vợ.”
Tôi nhìn cậu ta, gương mặt anh tuấn lạ thường, ánh mắt rực lửa như nung bảo vật, phảng phất như vĩnh viễn vì mục tiêu của bản thân mặc kệ tất cả. Tôi biết lần này cậu ta sẽ thực hiện cho bằng được lời hứa, tựa như những năm trước cậu ta âm thầm thực hiện mộng tưởng thời thiếu niên. Tôi mừng thay cho cậu, nhưng nghĩ đến bản thân mình, lòng bỗng chùng xuống.
Tâm tình buồn vui lẫn lộn qua hết đêm, ngày mai từ biệt. Tôi không ngờ rằng, chia tay cậu ta lần này, ngày gặp lại vô cùng xa xôi.
Vào mùa đông năm ấy, Quan Địch bỗng nhiên biến mất trên giang hồ, không ai biết tung tích.
Năm đó xảy ra một chuyện rất lớn: Mộ Dung thế gia và Tái Bắc Trì gia thông hôn, Trì Dương, trưởng tử vừa mới tiếp quản Trì gia, hỏi cưới tiểu thư Mộ Dung nức tiếng xinh đẹp Mộ Dung Ninh. Quan Địch mất tích dường như có liên quan đến sự kiện này, khiến tôi không khỏi lo lắng. Nhưng dù tra thế nào cũng không tìm được tung tích cậu ta.
Ba năm sau, tôi truy lùng một đám đạo tặc đến tận Tái Bắc, đột nhiên nghe tin Mộ Dung Ninh tự thiêu trên đỉnh núi Hồng Liên ở Hồng Liên Sơn Trang của Trì gia.
Không hiểu vì sao tôi lại cảm thấy chuyện này có liên quan đến Quan Địch, nhanh chóng tìm đến. Tại sườn núi cách sơn trang mười dặm, tôi gặp được Quan Địch đang bị trọng thương.
Thương thế cậu ta khỏi hẳn sau một tháng, nhưng con người cậu ta đã thay đổi không còn như trước kia. Cậu ta hoàn toàn mất đi nụ cười, cũng tựa hồ không nói chuyện. Ánh mắt cậu ta nóng hừng hực, nhưng lại khiến người khác phát lạnh toàn thân.
Cậu ta chưa từng nói với tôi rốt cuộc lúc đó trên đỉnh Hồng Liên đã phát sinh chuyện gì. Chỉ có một lần, cậu ta bị ác mộng tỉnh giấc, giọng khản đặc nói với tôi: “Trì Dương thiêu chết nàng, là Trì Dương.”
Lời cậu ta nói khiến tôi chấn kinh. Tôi không thể tưởng tượng được có người chính tay thiêu chết thê tử của mình, cho dù người đó là Trì Dương nổi danh lạnh lùng, thâm trầm.
Sau khi bão tố dần lắng xuống, chúng tôi một đường xuôi về phía tây, về lại đỉnh núi tuyết lần đầu gặp nhau.
Dựng một căn nhà gỗ ở ven hồ bên núi, củng cố lại võ công của cậu ta từ đầu. Mỗi ngày cậu ta đều vùi đầu luyện tập, tôi biết giờ đây lòng cậu ta đang bị ngọn lửa hận thù thiêu đốt.
Tôi không cách nào khuyên giải, chỉ biết giúp đỡ.
Mỗi năm, tôi đều dành vài tháng đi thăm Mi. Tận đến sinh nhật mười lăm tuổi, tôi gặp Mi lần nữa, mới biết được từ nay về sau không thể nào gặp lại nhau.
Tôi đi lúc trời còn sáng sớm, con đường nhỏ uốn lượn, sương khói quấn quýt ngọn cỏ mỏng manh.
Tôi nhìn thấy một thiếu nữ ngồi trong đình, trên mình khoác áo tơ vàng nhạt, buồn chán ngồi đung đưa hai chân. Mỗi lần ngẩng đầu lên, sóng mắt lưu chuyển, tựa như không nhìn cố định ở chỗ nào, chỉ quan tâm đến chuyện nào đó, thần sắc vừa bất an lại vừa vui mừng, vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Không ai biết được khi tôi nhìn thấy cảnh này, tâm trạng từ vui sướng chuyển sang đau đớn như thế nào. Phảng phất như cảnh cũ tái hiện. Có điều, người đã không còn là Linh luôn mong đợi tôi dẫn em đi du ngoạn.
Thời gian vô tình trôi, con gái em lớn lên dung mạo vô cùng giống em, tôi dường như không tin được vào mắt mình. Mộng cảnh chấm dứt, vui mừng chấm dứt, đau thương vô hạn.
Hoang mang rời khỏi Mộ Dung phủ, đi rất xa mới phát hiện, tôi đã quên để lại quà sinh nhật cho Mi.
Tôi về Tuyết Sơn.
Trong hai năm, tôi không đi thăm Mi lần nào, bởi vì tôi không dám đến đối diện với sự tra tấn như thế.
Hai năm sau, Quan Địch nghe nói Mộ Dung phủ và Trì gia liên hôn lần nữa, quyết định báo thù. Tôi đành đi theo giúp đỡ. Tôi chưa từng nghĩ đến việc ở Trì gia gặp lại Mi, bởi vì theo lời đồn thì tân nương là Mộ Dung Linh mới phải.
Lúc vừa thấy Mi, tôi lại tưởng là Linh. Nhưng khi Quan Địch bắt Mi làm con tin, tôi mới rõ thân phận của cô.
Tôi chỉ không hiểu tại sao Mộ Dung gia lại đẩy Mi tới đây. Chuyện này nếu để Trì gia biết được, cảnh ngộ của Mi sẽ nguy hiểm đến cỡ nào. Lẽ nào trên dưới Mộ Dung gia không ai quan tâm đến an nguy của Mi?
Tiếng pháo nổ đinh tai bên song cửa, Mi phải cúi thấp đầu mới nghe rõ câu hỏi của tôi:
“Tại sao lại là cháu gả đến đây?”
Mi hiểu ý tôi, nước mắt rơi xuống, trên mặt lại hiện lên nụ cười nhạt.
“Là cháu tình nguyện.” Mi nói. “Huống hồ người của Trì gia đã biết cháu là ai, nhưng họ không làm gì cháu cả.”
Nhìn tôi có vẻ muốn hỏi thêm, Mi thấp giọng: “Thúc thúc, bất luận thế nào, hiện tại cháu rất an toàn, thúc ngủ một chút đi, chuyện gì để ngày mai hãy nói tiếp.”
Tiếng pháo nổ dần thưa thớt, tai tôi vẫn còn ù.
Mi kéo chăn cho tôi, chợt phát hiện ra gì đó, hơi tiếc nuối, nhưng vẫn không nói lời nào.
“Sao vậy?” Tôi hỏi.
Mi hơi do dự, nói: “Túi thơm của mẹ treo trên người thúc, bị người ta chém rách rồi.” Nói xong tháo xuống, để vào tay tôi, lại “A” lên một tiếng, rút tay về, quay người về phía đèn nhìn thật kỹ.
“Gì vậy?” Tôi hỏi.
Mi chậm rãi xoay người lại, trong tay cầm một mảnh giấy gấp nhỏ, thấp giọng run run:
“Mẹ nhét thứ này bên trong cái túi thơm. Hình như là một phong thư.”
Tôi nhận mảnh giấy, tay run vô cùng. Tôi sợ chỉ dùng lực một chút mảnh giấy sẽ rách thành ngàn mảnh vụn.
Tôi nhớ lại đêm ly biệt mười hai năm trước, Linh treo túi thơm này vào hông tôi.
Em rốt cuộc muốn nói gì với tôi? Tại sao lúc em còn sống không nói rõ, chỉ viết một bức thư như vậy, khiến tôi mất bao nhiêu năm mới tìm thấy.
Mi đem đèn dầu đến đầu giường, khẩy sáng tim đèn.
Trong phòng tràn ngập khói pháo, nhàn nhạt mùi lưu huỳnh.
Tiếng pháo bốn phía ngừng hẳn, đã sang năm mới.
Tôi hít một hơi thật sâu, mở nếp gấp cuối cùng trên phong thư mười hai năm xưa cũ.
Đập vào mặt là một câu nói khiến đầu óc tôi trở nên mơ hồ:
“Em không biết nên xưng hô với anh như thế nào, từ lần đầu gặp anh.”
…
Tôi ngừng lại, trước mắt nhạt nhòa, không thể đọc tiếp.
…
“Em không biết nên xưng hô với anh như thế nào, từ lần đầu gặp anh.
Khi em lên bảy, anh lên tám. Mẹ anh bảo em gọi anh là đại ca.
Không biết anh còn nhớ không? Lúc đó em không hề mở miệng.
Không phải em sợ hãi, chỉ là em không muốn anh làm anh trai em.
Có lẽ, ngay từ giây phút đó, em đã biết sau này lớn lên em sẽ yêu anh.
Em cũng không muốn gọi tên anh. Nhạn Dao.
Hai chữ đó khiến em cảm thấy cuộc đời anh tựa như cánh chim nhạn ngược nam xuôi bắc, xa xôi không thể chạm.
Mà đúng thật là vậy.
Vì tên anh, em không thể không yêu thích tên mình: Nhạn Linh.
Em nghĩ nếu như anh nhất định phải làm một cánh chim không mỏi, em tình nguyện làm lông vũ trên đôi cánh anh. Núi cao sông sâu, trời nam biển bắc, bất luận anh đi đến đâu, em cũng cùng đi với anh.
Nhưng mà, em chỉ là kẻ si nói mớ.
Em biết em không thể làm lông vũ của anh, sớm muộn gì anh cũng lìa xa em.
Em biết.
Đêm trước khi anh đi, em tìm anh. Em hỏi: Lúc nào anh mới trở về dẫn em đi?
Anh vẫn chưa trả lời.
Em nói em sẽ đợi anh, em nói em sẽ đợi đến ngày không còn đợi được nữa.
Kỳ thật em đang nói, em sẽ đợi đến khi em chết. Nhưng em nghĩ anh không hề hiểu.
Em ở quê nhà đợi anh suốt năm năm. Em cự tuyệt rất nhiều người đến hỏi cưới. Tiếng đồn dấy lên khắp nơi.
Em chợt phát hiện cho dù anh về bây giờ, anh cũng không có dũng khí dẫn em đi. Muốn ở bên anh, chỉ còn cách rời xa chốn này.
Cho nên em phân phát hết gia sản, bỏ đi tha hương. Em đến một thôn làng nơi phương bắc, dựng nhà ở đó, tiếp tục đợi anh.
Không phải không có người biết tông tích của em, chỉ cần anh muốn tìm em, anh nhất định sẽ tìm thấy.
Em lại đợi suốt bốn năm, gặp được Mộ Dung An.
Em không rõ tại sao mình lại đáp ứng ở bên anh ta, có lẽ em đã lâm vào tuyệt vọng, có lẽ bởi vì em tuyệt vọng nên sinh hận, em muốn làm tổn thương mình để tổn thương anh.
Nhưng em chưa từng nghĩ đến chuyện gả cho anh ta, không đợi anh nữa.
Anh ta đã từng đề nghị, nhưng em không đồng ý.
Em chưa từng yêu anh ta, có lẽ anh ta cũng chưa từng yêu em.
Nhưng anh ta hiểu em hơn anh.
Lúc anh ta đi có nói với em:
“Nếu nàng cho rằng như vậy còn tiếp tục chờ anh ta được, vậy nàng sai rồi.”
Em không cần biết đúng sai, bởi vì em không có lựa chọn.
Em đã biến cuộc đời mình thành một canh bạc, em không có đường lui, bây giờ em dùng cả sinh mệnh của mình để cược.
Cuối cùng em đã đợi được anh, ngày anh đến là hai ngày sau đầy tháng Mi.
Vừa nhìn thấy anh, em biết em đã đợi được điều cả đời này em mong ngóng, nhưng em đã mất đi tư cách tiếp nhận.
Đau đớn trong lòng em chắc là gấp hai lần anh, bởi vì nhìn anh đau lòng, em đau khổ đến tột bậc.
Làm sao em có thể đồng ý lấy anh, để anh nuôi con của người khác? Anh là một nam tử kiêu ngạo như thế, tuy rằng rất ít người nhìn thấy sự cao ngạo của anh.
Đời này anh không cách nào tiếp nhận được, cưới em rồi, anh sẽ không hạnh phúc.
Nên em gạt anh, khiến anh ra đi. Lúc anh đi, em cho rằng đời này chúng ta không còn gặp lại nữa.
Anh ra đi khi đêm vắng, bốn bề tĩnh lặng. Em đứng bên song cửa lắng nghe tiếng bước chân anh.
Em cứ lắng nghe, cho đến khi không còn nghe thấy nữa.
Tất cả hệt như rất nhiều năm trước, anh cứ cho rằng anh đi không ai biết.
Em không nghĩ rằng anh còn quay lại, khi ngày tháng của em không còn bao lâu.
Em phải cám ơn ông trời.
Có lẽ em đã che giấu rất tốt, khiến anh tin rằng em thủy chung vẫn đang đợi cha của Mi.
Anh không hề biết mỗi khi anh quay đi, em nhìn anh với ánh mắt như thế nào, nếu không anh sẽ càng hiểu được tình em.
Anh đối với Mi rất tốt, em không nghi ngờ gì chuyện sau khi em chết, anh sẽ thay em nuôi Mi.
Nhưng em không muốn như vậy. Em muốn anh tự do.
Em không muốn Mi ở trước mắt anh, mỗi giây mỗi phút nhắc nhở anh, em đã từng tồn tại.
Thật lòng em hi vọng anh có thể quên em, nếu như điều đó xóa được nét ưu thương trên gương mặt anh.
Em không biết có nên để anh biết sự thật, em để quyền quyết định cho ông trời.
Em không còn thấy túi thơm ngày trước em đã thêu cho anh, nên làm cho anh một cái túi mới. Em sẽ nhét phong thư này vào đó.
Có lẽ rất lâu sau anh mới thấy được nó.
Có lẽ là mãi mãi không.
Nếu được chết bên anh, em cảm thấy rất hạnh phúc.
Em hi vọng anh thổi tiêu tiễn em, như thế em càng có dũng khí.
Tựa như đêm mùa thu năm ấy, anh ngồi dưới gốc tử đằng thổi tiêu cho em.
Anh còn nhớ hay không?
Từ đêm mùa thu năm ấy, anh ngồi dưới gốc tử đằng, thổi tiêu cho em.”